Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Cách phân biệt triệu chứng ho

Ho do bệnh ở đường hô hấp

Viêm mũi họng:Ho do viêm họng cấp thường thấy ho có đờm hoặc ho khan kèm theo sốt cao hoặc không có sốt. Ngoài ho, người bệnh cảm thấy nuốt vướng, cảm giác rát họng. Khi khám thấy họng đỏ, có hạt hoặc có mủ hoặc thấy amidan sưng đỏ. Ho do viêm thanh quản cũng có triệu chứng ho khan kèm theo giọng nói khàn hoặc mất tiếng.

Ho kèm theo hắt hơi sổ mũi là dấu hiệu của cảm cúm

Ho kèm theo hắt hơi sổ mũi là dấu hiệu của cảm cúm

Viêm khí – phế quản: Khi bị viêm khí quản, phế quản cấp thì ngoài sốt cao, thì giai đoạn đầu ho khan, giai đoạn sau có đờm. Đờm có thể đặc hoặc loãng, màu trắng hoặc vàng. Từ các triệu chứng này nếu được nhận biết sớm và đi khám, dùng thuốc sớm sẽ mau khỏi bệnh.

Ho do viêm phế quản mạn thường gặp ở người hút thuốc lá (75%). Ho có nhiều đờm, mỗi năm ho khạc 3 tháng, trong vòng hai năm liền. Bệnh hay tái phát do những đợt bội nhiễm hoặc tiếp xúc với các tác nhân gây viêm như không khí lạnh, độ ẩm cao, hít phải hơi độc.

ho do viêm phế quản

Ho kèm theo tiếng rít là biểu hiện của viêm tiểu phế quản, cần đưa trẻ đến bác sĩ để được khám bệnh

Với bệnh giãn phế quản thì thường ho nhiều về buổi sáng, có rất nhiều đờm. Khi để đờm vào dụng cụ thủy tinh, đờm sẽ lắng thành 3 lớp: dưới là mủ, giữa là chất nhày, lớp trên cùng là bọt lẫn dịch. Giãn phế quản có khi ho ra máu và hay tái phát do đợt bội nhiễm.

Bệnh hen phế quản thường gặp ở lứa tuổi trẻ và trung niên. Người bệnh không bị sốt nhưng lại có khó thở từng cơn, cơn hay gặp về ban đêm, trong lúc khó thở thấy tiếng rít cò cử. Sau cơn bệnh nhân ho và khạc ra nhiều đờm trắng, loãng. Hay tái phát nhiều lần do bội nhiễm, khi đó thì đờm có màu vàng.

Ung thư phế quản: Gặp ở người già, người hút thuốc lá. Người bệnh gầy sút nhanh, ăn uống kém, đau ngực, ho ra máu. U chèn ép nhiều gây khó thở, xẹp phổi. Cần phải chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực để xác định.

Bệnh ở phổi: Khi bị viêm phổi thì ho ho có đờm quánh, dính, màu rỉ sắt kèm theo sốt cao, rét run, đau ngực. Khi xét nghiệm, bạch cầu trong máu tăng cao. Chụp Xquang phổi có hình ảnh viêm phổi.

Bệnh lao phổi sẽ khiến ho dai dẳng, ra đờm đặc, có khi lẫn máu hoặc ho ra máu tươi. Ngoài ra, bệnh nhân có sốt nhẹ về chiều, người gầy, sút cân, chán ăn.

Khi bị áp-xe phổi, bệnh nhân sẽ sốt cao, đau ngực, kèm theo ho khan hoặc có đờm. Khi ổ áp-xe vỡ thông vào phế quản thì ho ra nhiều đờm như mủ, mùi tanh hoặc rất thối.

Ho do bệnh bụi phổi gặp ở người tiếp xúc với bụi ở công trường, hầm mỏ, làm đường, công nhân nhà máy dệt, may, xi-măng... Bệnh nhân ho kéo dài, ra đờm màu đen, đục. Những đợt bội nhiễm thì ho tăng hơn. Bệnh kéo dài, ảnh hưởng đến toàn thân.

Bệnh màng phổi: Viêm màng phổi có dịch, ho do màng phổi bị kích thích, ho khi thay đổi tư thế.

Ho do bệnh ngoài đường hô hấp

Ho ở bệnh bạch hầu thanh quản: Tiếng ho ông ổng, thể trạng toàn thân nhiễm trùng, nhiễm độc nặng. Có màng trắng ở họng, gây khó thở, nhiều khi phải mở khí quản.

Ho gà: Gặp ở trẻ nhỏ, có sốt. Ho từng cơn, cuối cơn ho có tiếng rít như tiếng rít của gà gáy. Ho nhiều có thể vỡ phế nang, gây tràn khí màng phổi.

Ho do dị vật đường hô hấp: Bệnh nhân ho sặc sụa, mặt tím tái, có tiếng thở rít, người ngột ngạt như sắp chết. Khi dị vật xuống sâu và ổn định thì đỡ ho, đỡ khó thở. Dị vật gây viêm nhiễm thì ho có đờm hoặc có máu, ho dai dẳng, sốt cao, đau ngực.

Ho do các nguyên nhân tim mạch: Tăng áp lực động mạch phổi, phổi bị ứ huyết, gặp trong các bệnh hẹp van hai lá, tâm phế mạn, suy tim, viêm màng ngoài tim khô hoặc có dịch. Áp-xe gan, dưới cơ hoành: Gây phản ứng phổi - màng phổi, kích thích màng phổi gây ho khan kèm theo đau tức ngực.

Ho do sử dụng một số thuốc: Một số thuốc (ví dụ như tăng huyết áp) gây ho khan ở vài người bệnh. Khi bắt đầu uống thuốc, bệnh nhân thấy ho khan mà không bị ngứa hay rát họng (chỉ khi ho nhiều gây kích ứng mới rát họng), ho nhiều về đêm thì nghĩ ngay đến tác dụng phụ của thuốc. Cần trao đổi với dược sĩ hoặc bác sĩ để được biết rõ hơn và được điều chỉnh thuốc kịp thời.

Ngoài ra, khi phụ nữ có thai, u xơ tử cung, bệnh trào ngược dạ dày, người rối loạn tinh thần... hoặc mắc một số bệnh toàn thân kèm viêm đường hô hấp cũng có ho, như bệnh cúm, sởi, bạch cầu, thương hàn, rubeol, nhiệt thán. Ho còn gặp trong trường hợp nhiễm không khí nóng hoặc lạnh, hít phải các hơi độc, hóa chất, thuốc lá gây kích thích niêm mạc đường hô hấp.

Điều trị ho

Về điều trị ho thì việc quan trọng là phải điều trị nguyên nhân, nhưng điều trị triệu chứng ho và làm cho đờm thoát ra ngoài (khi có đờm) lại rất cần thiết. Thuốc ho có nhiều loại: thuốc có tác dụng trên trung ương (trung tâm hô hấp như dextromethorphan, mocphin, codein) và các thuốc làm tan đờm, loãng đờm (tecpin). Tuy nhiên các thuốc này cũng có những tác dụng phụ hoặc tai biến. Chẳng hạn như các thuốc trung ương gây ức chế trung tâm hô hấp, không nên dùng cho người già, trẻ em, người có viêm phế quản mạn tính, đặc biệt là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và người suy hô hấp. Thuốc codein không dùng cho người táo bón và thận trọng cho người bị hen... Tùy theo từng trường hợp ho cụ thể mà các bác sĩ sẽ có quyết định.

Thuốc ho phải dùng với liều lượng tối thiểu, cần dùng đúng liều cho trẻ em, người cao tuổi, phải phối hợp với điều trị bệnh chính. Chú ý không được tự ý dùng một cách tùy tiện.

BS.Lê Anh Tiến

0 nhận xét:

Đăng nhận xét